Enter your keyword

Cô ca

CÔ CA

DƯỢC LIỆU CHỨA ALCALOID CÓ NHÂN TROPAN

Folium coca

Tên latin: Erythroxylon coca Lamk.

Họ: Cô ca (Erythroxylaceae)

Cây Cô ca

Mô tả

Cây Cô ca là một cây nhỏ cao từ 2 – 3 mét, thân cây sù sì, lá mọc so le, gần nhau, cuống ngắn, có hai lá kèm nhỏ, nhiều khi cứng lên thành gai.

Hoa mọc từ những kẽ lá, thành chùm nhoe, gồm các xim ngắn, cánh màu trắng đều, lưỡng tính, 5 cánh tráng sole, 10 nhị đực, 3 tâm bì kín họp thành bầu có 3 vòi, 3 ngăn nhưng chỉ có 1 ngăn đậu lại.

Quả là một quả hạch thon dài, khi chín màu đỏ đẹp, có một hạt có phôi thẳng đặt vào trong một phôi nhũ lớn.

Địa lý, phân bố

Nguồn gốc ở Peru, mọc hoang và được trồng ở cao nguyên 700 – 1700m trên dãy núi Ăng-đơ ở Nam châu mỹ, khí hậu mát và ẩm.

Hiện nay, thấy mọc hoang và trồng ở Sili, Bolivi, Indonexia, Đài Loan, Nha Trang (Việt Nam), Đông châu Phi.

Ở Việt Nam, thứ mọc hoang ở miền Nam Trung Bộ thuộc loài Erythroxylon gracile Schultz và E.cuneatum Kurz nhưng không thấy nhân dân dùng đến.

Còn những cây Cô ca ở các nước thuộc 4 loài chính: peruvianum, bolivianum, novogranatense spruceanum.

Trồng trọt, thu hái

Trồng bằng dâm cành hay gieo hạt. Hạt rất chóng mất khả năng nảy mầm.

Gieo nơi mát trong đất có đất sét và cát, phủ chừng 1 cm đất, sau 1 thánh mới thấy mọc, khi cây cao chừng 30 – 40 cm thì bắt đầu đánh trồng đi chỗ khác. Mỗi cây cách nhau 1 m x 0,5 m. Ba năm đầu cần che nắng bằng cách trồng xen các giống khác; nhưng sau phải giai nắng để tăng tỉ lệ alcaloid. Không phải chăm nom nhiều; chỉ cần làm cỏ bón phân sau mỗi vụ hái.

Khi cây cao 1,5 mét thì bắt đầu hái. Hái lá già ở phía dưới cành nhiều alcaoid hơn, để dành lá non. Hái cẩn thận từng lá một để tránh hại cây; việc hái gần như liên tiếp trong 3 – 4 tháng và kéo dài mãi; vì cây Cô ca có thể sống tới 80 – 100 năm; hiệu suất cao nhất vào năm thứ 10.

Sau khi hái, phơi khô trong bóng mát rồi đóng bì.

Ở Peru, một năm hái 3 vụ: một vào tháng 3 (tốt nhất), một vụ kém hơn, vụ cuối cùng lại khá.

Mộc hecta cho chừng 85kg lá khô một vụ, mỗi năm có thể tới 340 – 350kg; nếu biết tỉa cho có nhiều cành, bón nhiều phân kali, hiệu suất có thể lên tới 800kg.

Bộ phận dùng

Lá nguyên, dài từ 4 – 8 cm, rộng 2,5 – 4 cm. Cuống ngắn. Màu xanh lục nhạt, nhẵn, mỏng, mềm. Hai bên gân chính có hai đường cung ôm lấy gân chính, chia lá thành một hình thoi ở giữa rộng khoảng ¼ lá. Đó là vết gấp của phiến lá lúc còn non trong búp. Vị đắng, chát, nóng, sau thấy tê tê.

Vi phẫu lá

Biểu bì trên có tế bào nhiều cạnh đều, nhẵn.

Biểu bì dưới, mỗi tế bào có một vòng nổi hình nón làm cho mép phiến lá trông nghiêng mấp mô rất đặc biệt. Khổng với hai tế bào kém song song với của khổng.

Nhục diệp có một hoặc hai lớp tế bào dậu có clorophyn, mô khuyết có các tế bào mang tinh thể canxi oxalat.

Bó libe-gỗ cếp thành vòng cung, gỗ ở trê, libe ở dưới, dưới nữa là sợi trụ bì; các bó cách nhau bởi tia ruột. Hai đầu cánh cung, sợ trụ bì phủ lên gỗ thành hai mép khá dày.

Bột lá Cô ca có màu xanh lục nhạt với các đặc điểm:

Khí khổng với hai tế bào kèm.

Sợi mang tinh thể với tinh thể hình lập phương.

Mảnh tế bào biểu bì dưới nhìn từ rên xuống thấy những hình tròn, nếu nhìn nghiêng sẽ thấy mấp mô.

Quả cây Cô ca

Thành phần hóa học

Thành phần hóa học của lá Cô ca rất phức tạp. Để dành lâu, nó có thể thay đổi, lượng alcaloid cũng giảm dần với thời gian, cho nên chit hái hay mua khi cần: khi mua vào phải kiểm soát định lượng alcaloid. Dùng Cô ca làm tuốc chỉ dùng lá để dưới 7 tháng, lâu hơn coi như là bỏ đi, không có giá trị.

Trong lá ta thấy:

  • Hai tanin: acid clorogenic và cocatanic.
  • Một phytosterol. Các chất béo.
  • Một sáp là hỗn hợp panmitat β amyrin, β xerotinon, acid panmitic, β amyrin, xerin do dự phân đôi của các este.
  • Một tinh dầu 0,06 – 0,1 đến 0,5% (tươi có nhiều hơn khô) màu vàng, vị nóng, chứa salixylat metyl, andehyt một ít rượu metylic, axeton và một alcaloid bốc hơi có lẽ là chất hygrin.
  • Hai heterozit: Cocaxitrozit thủy phân cho một đường và một không đường: cocaxetin.

Cocaflavozit có thể phân ra glucoza, galactoza và cocaflavetin.

Nhưng thành phần chủ yếu của lá Cô ca gồm rất nhiều ancaloit trong đó có bốn thức chính đều là dẫn chất của ecgonin: Cocain, Xinnamylcocain, α-truxillin, β-truxillin.

Cocain là alcaloid quan trọng nhát. Cocain thủy phan cho ecgonin, rượu meylic và acid benzoic.

Định lượng alcaloid trong lá cây Cô ca bằng phương pháp De Jong. Dược điển Pháp ấn định lá Cô ca phải chứa ít nhất 0,7% alcaloid.

Tác dụng sinh lý và độc tính

Từ lâu, lá Cô ca đã được nhân dân địa phương Pê-ru dùng ăn như nhân dân ta ăn trầu. Nhờ nhai lá Cô ca, họ có thể di đường xa không mệt nhọc, không cần ăn uống. Năm 1688 được phổ biến sang châu Âu; năm 1855-1859, lấy ra được chất cocain dùng trong khoa tai mũi họng, sau trong nhãn khoa và cuối cùng trong giải phẫu.

Lúc đầu, lá Cô ca được dùng làm thuốc bổ, vì người ta tưởng đó lá một thức ăn dự trữ; nhưng thực tế, tính chất gây tê làm người ta không thấy mệt; nhưng bệnh nhân vẫn muốn ăn.

Thực ra, Cô ca không phải là một thứ thuốc bổ; với liều nhỏ, nó tăng sự bài tiết nước dãi, dạ dạy nóng rát, khoan khoai: mỗi ngày dùng 10 – 15g lá, chữa đau dạ dày, nôn mửa; với liều mạnh, gây sự biếng về thể xác và tinh thần.

Dùng luôn sẽ gây nghiện rất mau và nguy hiểm.

Chất cocain: là một vị thuốc gây co mạch máu và giãn con ngươi. Tiêm cocain thẳng vào thủy sẽ gây mất cảm giác toàn bộ vùng dưới của cơ thể, do đó ta có thể giải phẫu mà không cần gây mê toàn thân. Nhưng vì cocain độc cho nên hiện được thay thế bằng stovatin và novocain.

Dung dich 1/20 – 1/30 áp lên da gây mất cảm giác tại nơi đó, làm nới đó nhợt nhạt do hiện tượng co mạch máu. Tính chất này được dùng trong nha khoa nhãn khoa, hầu khoa. Dùng 1 – 8 gam lá trong một ngày dưới dạng thuốc pha 10%o để súc miệng.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

lovemama.vn

    ĐẶT MUA SẢN PHẨM

    Giao hàng toàn quốc (Tận nơi - Giá tốt)

    Bỏ trống ô số lượng nếu bạn cần tư vấn

    Chúng tôi sẽ liên hệ lại ngay khi nhận được thông tin

    096 419 6541